Kẽm là một cation hóa trị hai và là một vi chất dinh dưỡng cần thiết cho con người. Nó là một thành phần thiết yếu của hơn 300 metalloenzyme và hơn 2000 nhân tố phiên mã cần thiết cho quy định của lipid, protein, chuyển hóa axit nucleic và phiên mã gen. Kẽm tham gia vào phiên mã gen ở các cấp độ khác nhau thông qua các phản ứng deacetylation histone và các yếu tố phiên mã chứa kẽm (protein zinc-finger).
Nguyên tố kẽm
Một nhóm các protein zinc-finger quan trọng là các thụ thể steroid, hormon tuyến giáp. Kẽm cũng đóng một vai trò quan trọng trong việc duy trì chức năng sinh sản, tình trạng miễn dịch và sửa chữa vết thương thông qua quy định của DNA và RNA polymerase, thymidine kinase và ribonuclease. Nó giúp duy trì chức năng của đại thực bào và bạch cầu trung tính, hoạt động tế bào tiêu diệt kháng nguyên tự nhiên và các hoạt động khác. Đồng thời kẽm ổn định các màng đặc biệt là các lysosome. Nó còn điều chỉnh việc sản xuất TNF-α và IL-6, giảm sự sản xuất các chất trung gian gây viêm như nitric oxide. Kẽm cũng ảnh hưởng đến chức năng tế bào đuôi gai và các quá trình miễn dịch. Ngoài ra, thành phần này còn có tính năng chống oxy hóa, hữu ích trong việc ngăn ngừa tổn thương do UV gây ra và giảm tỷ lệ mắc bệnh lý ác tính.Nó cũng đã được chứng minh là có đặc tính kháng androgen như hoạt động 5α-reductase type 1 và 2.
Nhu cầu
Một người lớn trung bình nặng 70 kg có hàm lượng kẽm của cơ thể 1,4-2,3 g, mô có hàm lượng cao nhất (> 500 mg/g trọng lượng khô) là trong tuyến tiền liệt, tinh dịch và da. Trong khoảng một nửa tổng số kẽm cơ thể được lưu trữ trong xương thì da có chứa khoảng 6% trong tổng số kẽm cơ thể. Sự trao đổi của kẽm giữa các mô khác nhau là hạn chế và không có kho lưu trữ nên việc cung cấp từ bên ngoài liên tục là rất quan trọng đối với nhu cầu trao đổi chất, tăng trưởng và sửa chữa mô. Nhu cầu hàng ngày của kẽm đối nam giới trưởng thành trung bình là 11 mg và từ 8 mg/ngày lên đến 12 mg/ngày ở phụ nữ khi mang thai và cho con bú. Thức ăn động vật như thịt, trứng, cá và hàu rất giàu kẽm. Mặc dù các loại ngũ cốc và cây họ đậu có chứa lượng vừa phải của kẽm nhưng chỉ có 20-40% của kim loại ăn vào được hấp thu.Hấp thụ của nó bị cản trở bởi sự hiện diện của phytates, canxi và phosphat. Các tác nhân tạo phức như EDTA và protein động vật làm tăng sự hấp thu từ ruột. Kẽm được hấp thu từ hỗng tràng gần và tá tràng xa. Nó được đào thải chủ yếu qua phân và một lượng nhỏ trong nước tiểu và mồ hôi.
Một số loại thực phẩm giàu kẽm
Sử dụng kẽm trong điều trị các vấn đề về da
Kẽm cả ở dạng tự do tố hay các dạng muối đều được sử trong y học nhiều thế kỷ qua.Kẽm dùng tại chỗ như oxit kẽm, calamin, kẽm pyrithione được sử dụng với vai trò bảo vệ da tránh bức xạ mặt trời. Ngoài ra kẽm còn được sử dụng trong nhiều trường hợp bệnh lý về da khác nhau như nhiễm trùng ( mụn cóc), mụn vulgaris, rosacea, rối loạn sắc tố (nám), neoplasias (ung thư biểu mô tế bào đáy). Kẽm có vai trò đặc biệt quan trọng vì nó đóng vai trò như là một vi chất dinh dưỡng cần thiết cho sự tăng trưởng và phát triển.
Nhiễm trùng
Kẽm dùng đơn độc hoặc như một chất bổ trợ hữu ích trong nhiều bệnh nhiễm trùng da do điều chỉnh chức năng đại thực bào và bạch cầu trung tính, hoạt động thực bào và các cytokine viêm khác nhau.
Mụn
Đây là rối loạn phổ biến nhất trong nhóm tuổi vị thành niên (đến 90-95%). Thuốc kháng sinh, retinoid đường uống và bôi là liệu pháp thường được sử dụng. Điều trị kháng sinh có thể phát sinh những chủng kháng thuốc nên cũng có những bất lợi nhất định. Kẽm đã được sử dụng rộng rãi trong việc quản lý mụn. Kẽm sulfate không hiệu quả và gây kích ứng tại chỗ, nhưng các phối hợp thuốc trị mụn bôi có chứa kẽm acetate hoặc octoate có hoặc không có erythromycin có tác dụng bằng hoặc vượt trội hơn so với chỉ dùng erythromycin, tetracycline hoặc clindamycin một mình trong việc làm giảm mức độ nghiêm trọng của mụn và các tổn thương. Kẽm sulfat đường uống được báo cáo là có hiệu quả hơn trong việc điều trị mụn trứng cá nặng so với chỉ bị mụn trứng cá nhẹ, nhưng có thể gây buồn nôn, nôn mửa, tiêu chảy.
Kẽm được sử dụng hỗ trợ trong điều trị mụn
Tương tự như vậy, uống kẽm gluconate hữu ích trong việc quản lý mụn viêm nhưng cũng có những bất lợi khi bắt đầu điều trị. Tuy nhiên, điều trị mụn trứng cá với muối kẽm có tác dụng bằng hoặc kém hiệu quả hơn so với kháng sinh nhóm tetracycline (minocycline, oxytetracycline). Gần đây, phức hợp methionine liên kết kẽm với chất chống oxy hóa đã được thử nghiệm và cho thấy rất hữu ích trong việc quản lý mụn vulgaris nhẹ đến trung bình. Kẽm có hoặc không có nicotinamide cũng là một lựa chọn trong điều trị mụn trứng để giảm tác dụng phụ có thể có của thuốc kháng sinh và chủng đề kháng. Cơ chế chính xác của kẽm trong điều trị mụn trứng cá còn ít được làm sáng tỏ, có thể là tác động trực tiếp vào trạng thái cân bằng của vi khuẩn gây viêm và tạo thuận lợi cho sự hấp thụ thuốc kháng sinh khi sử dụng kết hợp. Kẽm bôi một mình cũng như kết hợp với các thuốc khác có hiệu quả có lẽ vì ức chế P. acnes lipase và nồng độ acid béo tự do đồng thời còn do chính tác dụng chống viêm của nó. Một cơ chế nữa được đề xuất cho các lợi ích của kẽm trong mụn là ức chế sản xuất bã nhờn bởi hoạt động kháng androgen.
Điều trị rối loạn sắc tố
Kẽm đã được sử dụng cho cả bệnh bạch biến và nám. Bệnh bạch biến là một rối loạn sắc tố, chiếm 0,1% đến 2% dân số. Bệnh nhân bạch biến có nồng độ kẽm trong huyết thanh thấp hơn đáng kể so với nhóm chứng bình thường, kẽm đã được mặc nhiên công nhận đóng một vai trò trong việc quản lý bệnh bạch biến. Kẽm hạn chế sự chết của tế bào và là chất chống oxy hóa quan trọng. Cùng với các vi chất khác như đồng và mangan, kẽm cũng mặc nhiên công nhận đóng một vai trò quan trọng trong tổng hợp sắc tố melanin.
Nám da là một rối loạn sắc tố da liễu phổ biến, gây ảnh hưởng đến thẩm mỹ. Khuynh hướng di truyền, mang thai, tránh thai, rối loạn chức năng nội tiết, điều trị nội tiết tố hoặc tiếp xúc với ánh sáng UV là những yếu tố gây nên tăng sắc tố da. Bôi kẽm sulfat đã được thử nghiệm trong việc quản lý nám do thuộc tính chống nắng của nó. Sharquie et al đã báo cáo giảm đáng kể nám ba tháng điều trị với 10% kẽm sulfat bôi ngoài da và không có bất kỳ tác dụng phụ nào đáng kể. Kẽm oxyd là một thành phần phổ biến trong hầu hết các loại kem chống nắng sử dụng cho điều trị nám.
Điều trị sẹo
Điều trị sẹo lồi bằng corticosteroid, thuốc bôi, silicon gel, phẫu thuật và các phương thức điều trị vật lý khác bao gồm laser, phương pháp áp lạnh có lợi thế và bất lợi riêng. Các tác dụng có lợi của kẽm tại chỗ trong điều trị sẹo lồi ở một vài nghiên cứu do khả năng ức chế lysyl oxidase và kích thích collagenase dẫn đến giảm sản xuất và gia tăng sự suy thoái của collagen.
Chống lão hóa
Mahoney et al đánh giá ảnh hưởng phối hợp 0,1% đồng – kẽm malonate có trong kem đến sinh tổng hợp elastin và sự đàn hồi của da trong 21 bệnh nhân nữ bị lão hóa do bức xạ. Sau 8 tuần điều trị, các sợi đàn hồi đã tái sinh quan sát được ở lớp hạ bì, các nếp nhăn trở nên mờ hơn. Kẽm có thể được sử dụng cho các giải pháp chống lão hóa da, giúp da đàn hồi và bảo vệ da tốt khỏi tổn thương do bức xạ.
Bảo vệ chống nắng và phòng ung thư da
Kẽm oxyd được sử dụng rộng rãi như là một chống nắng vật lý phổ rộng
Kẽm oxyd được sử dụng rộng rãi như là một chống nắng vật lý phổ rộng. Lợi thế của nó nằm ở chi phí thấp và sự an toàn. Nó đã được sử dụng đơn độc hay kết hợp với các chất chống nắng vật lý khác (titanium oxid) hoặc tác nhân chống nắng hóa học. Gần đây oxydt kẽm nano siêu mịn mang lại tác dụng tốt hơn so với những dạng truyền thống.