CHẨN ĐOÁN VÀ ĐIỀU TRỊ MỤN

Mụn là một rối loạn cấp tính xảy ra trên da và phổ biến trong dân số. Mục tiêu trị liệu căn cứ vào 4 yếu tố chịu trách nhiệm cho sự hình thành tổn thương: tăng sản xuất bã nhờn, quá trình sừng hoá, sự phát triển của vi khuẩn Propionibacterium acnes và phản ứng viêm.

Các mục tiêu điều trị bao gồm phòng ngừa sẹo, giảm các ảnh hưởng về tâm lý và khắc phục các tổn thương. Phân loại mụn dựa trên loại tổn thương và mức độ nghiêm trọng để đưa ra hướng dẫn điều trị phù hợp. Retinoid dùng tại chỗ có hiệu quả trong điều trị tổn thương viêm và không viêm bằng cách ngăn ngừa mụn trứng cá, giảm mụn trứng cá hiện có và kháng viêm. Benzoyl peroxide là một chất diệt khuẩn kê đơn không dẫn tới kháng thuốc của vi khuẩn. Kháng sinh tại chỗ và bằng Đường uống có hiệu quả trong đơn trị liệu, nhưng có hiệu quả hơn khi kết hợp với retinoid bôi. Việc bổ sung các benzoyl peroxide trong điều trị kháng sinh làm giảm nguy cơ kháng thuốc của vi khuẩn.  Isotretinoin uống được phê duyệt để điều trị mụn trứng cá day dẳng và nghiêm trọng. Sau khi đạt được mục tiêu điều trị, điều trị duy trì nên được thực hiện. Không có bằng chứng rõ ràng về việc sử dụng liệu pháp laser và ánh sáng trong điều trị mụn.

Bệnh sinh

Mụn trứng cá là một bệnh viêm mãn tính liên quan đến các đơn vị tuyến bã.  Nó được đặc trưng bởi sự phát triển của một nhân mụn trứng cá trong nang. Bốn yếu tố chính dẫn đến sự hình thành của mụn:

  • Tăng tiết bã nhờn, trong đó androgen có một vai trò quan trọng.
  • Quá trình keratin hoá.
  • Sự phát triển của vi khuẩn yếm khí Propionibacterium.
  • Phản ứng viêm.

Tình trạng viêm có thể bắt đầu trước khi karatin hoá nang. Phương pháp điều trị hiện tại nhắm mục tiêu bốn yếu tố để kiểm soát tình trạng cấp tính và duy trì dài hạn.

Chẩn đoán

Mụn được chẩn đoán bằng cách xác định các tổn thương. Tổn thương mụn có thể là mụn không viêm mở hoặc đóng (mụn đầu đen và mụn đầu trắng) đến các tổn thương viêm, trong đó có thể là các sẩn (papule), mụn mủ (pustule) hoặc nốt (nodule). Tổn thương có nhiều khả năng xảy ra trên mặt, cổ, ngực và lưng, nơi có mật độ cao hơn của các tuyến bã nhờn. Các vấn đề da khác có thể có biểu hiện giống tổn thương mụn trứng cá và cũng có thể được gọi là mụn nhưng chúng không có nhân. Chẩn đoán mụn dựa trên các loại tổn thương và mức độ nghiêm trọng của chúng, giúp quyết định phương pháp điều trị sẽ tiến hành.

Mục tiêu trị liệu

Mục tiêu điều trị ở những bệnh nhân bị mụn trứng cá bao gồm ngăn ngừa sẹo, giảm tỷ lệ mắc bệnh tâm lý và giảm thương tổn viêm và không viêm. Điều trị cần được tiếp tục trong ít nhất tám tuần trước khi có đáp ứng điều trị nhìn thấy.

Phương pháp điều trị tại chỗ: Kê đơn

Retinoid bôi

Chúng giúp ngăn chặn sự hình thành và giảm số lượng các mụn trứng cá, hữu ích đối với các thương tổn không viêm. Retinoids bôi cũng có đặc tính chống viêm, khiến chúng phần nào hữu ích trong điều trị các thương tổn viêm. Bôi retinoid được chỉ định đơn trị liệu trong điều trị mụn không viêm và kết hợp thuốc kháng sinh để điều trị mụn trứng cá viêm. Ngoài ra, retinoid còn hữu ích trong duy trì hiệu quả khi mục tiêu điều trị đã đạt được và khi liệu trình được đã hoàn tất. Nhìn chung, adapalene là retinoid dung nạp tại chỗ tốt nhất. Một số bằng chứng cho thấy tazarotene hiệu quả hơn so với adapalene và tretinoin (Retin-A). Không có bằng chứng nào cho thấy công thức nào vượt trội hơn hẳng công thức nào.

Kháng sinh trị liệu

Kháng sinh tại chỗ được sử dụng chủ yếu để điều trị mụn nhẹ đến trung bình viêm hoặc mụn trứng cá hỗn hợp. Clindamycin và erythromycin được nghiên cứu nhiều nhất. Chúng đôi khi được sử dụng đơn trị liệu, nhưng có hiệu quả hơn khi kết hợp với retinoid bôi. Vì khả năng kháng sinh tại chỗ có thể gây đề kháng, nên người ta khuyến cáo nên kết hợp benzoyl peroxide vào phác đồ trị liệu.

Các hoạt chất khác

Axit azelaic: cần được xem xét để sử dụng ở phụ nữ mang thai. Công thức dạng cream được sự chấp thuận của Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm thuộc Hoa Kỳ (FDA) để điều trị mụn trứng cá vulgaris, nhưng dạng gel có sinh khả dụng tốt hơn. Đây là hoạt tính có hiệu quả kết hợp giữa đặc tính kháng sinh và các hiệu ứng hình thành nhân mụn, hiệu quả trong điều trị mụn nhẹ đến trung bình có viêm hoặc hỗn hợp.

Dapsone: là một trong những tác nhân được FDA chấp nhận trong điều trị mụn đầu tiên. Mặc dù nó là một loại kháng sinh nhưng cũng có khả năng cải thiện mụn trứng cá bằng cách ức chế viêm. Trong các nghiên cứu, dapsone hiệu quả hơn giả dược trong việc làm giảm các tổn thương viêm và không viêm nhưng chưa bao giờ được so sánh với các tác nhân khác. Không giống như dapsone dùng bằng đường uống, không có bằng chứng cho thấy các hoạt chất này gây thiếu máu, tan máu hoặc phản ứng da nặng.

Phương pháp điều trị tại chỗ: không cần kê đơn

Benzoyl peroxide: là một tác nhân kháng khuẩn không cần kê đơn. Benzoyl peroxide là hoạt chất duy nhất có đặc tính như một kháng sinh nhưng nó không gây sự kháng thuốc. Đây là hoạt chất hiệu quả nhất trong điều trị mụn nhẹ đến trung bình khi sử dụng kết hợp với retinoid bôi., Benzoyl peroxide cũng có thể được thêm vào các phác đồ có kháng sinh tại chỗ và uống để giảm nguy cơ kháng thuốc của vi khuẩn.

Salicylic acid: có mặt trong một loạt các sản phẩm không kê đơn giúp làm sạch da. Những sản phẩm này có tác dụng chống hình thành mụn nhưng yếu hơn so với retinoid bôi, song các nghiên cứu có giới hạn.

Liệu pháp điều trị đường uống

Kháng sinh đường uống: có hiệu quả trong điều trị mụn trung bình đến nghiêm trọng. Các kháng sinh tốt nhất được nghiên cứu bao gồm tetracycline và erythromycin. Dựa trên sự đồng thuận của các chuyên gia về tính hiệu quả tương đối.  Học viện Da Liễu Mỹ khuyến cáo sử dụng doxycycline và minocycline hơn là tetracycline. Trimethoprim/sulfamethoxazole và trimethoprim đơn trị có thể được sử dụng nếu tetracycline hoặc erythromycin không dung nạp. Do khả năng đề kháng thuốc với một kháng sinh uống, các chuyên gia khuyến khích rằng nên thêm benzoyl peroxide vào bất kỳ chế độ điều trị thuốc kháng sinh đường uống nào. Tetracycline được ưa thích hơn erythromycin vì có tỷ lệ đề kháng cao hơn liên quan erythromycin. Sau khi mục tiêu điều trị cá nhân đã được đáp ứng, thuốc kháng sinh uống có thể được ngưng và thay thế bằng retinoid để điều trị duy trì. Retinoids bôi là đủ để ngăn ngừa tái phát ở hầu hết các bệnh nhân bị mụn trứng cá vulgaris, đặc biệt nếu bệnh đã được phân loại ban đầu là nhẹ hoặc trung bình. Nếu mụn của bệnh nhân ban đầu được phân loại là nghiêm trọng, benzoyl peroxide với/hoặc không có một loại kháng sinh có thể được thêm vào để duy trì điều trị.

Isotretinoin uống: được FDA phê chuẩn để điều trị mụn nặng. Bằng chứng cho thấy rằng chúng cũng hữu ích cho mụn trứng cá ít nghiêm trọng có khả năng đề kháng. Liều dùng thông thường để điều trị mụn nặng kháng trị là 0,5-1,0 mg/kg mỗi ngày trong khoảng 20 tuần. Khi mới bắt đầu có thể được giảm thiểu với một liều lượng hàng ngày bắt đầu khoảng 0,5 mg hoặc ít hơn mỗi kg. Tổng liều tích lũy dưới hơn 120 mg có thể tăng nguy cơ tái phát và liều lượng nhiều hơn 150 mg tăng tỉ lệ tác dụng phụ mà không mang lại lợi ích gì hơn. Isotretinoin gây quái thai mạnh và được kết hợp với những bất thường của khuôn mặt, mắt, tai, sọ, hệ thống thần kinh trung ương, hệ tim mạch, tuyến ức và tuyến cận giáp. Kiểm tra thai kỳ cần được thực hiện trước điều trị, sau đó hàng tháng trước khi nhận được chỉ định điều trị, ngay lập tức sau khi dùng liều cuối cùng và một tháng sau khi uống liều cuối cùng. Việc sử dụng isotretinoin đã được đề xuất làm xấu đi bệnh trầm cảm và làm tăng nguy cơ tự tử, nhưng không có mối quan hệ nhân quả nào được thành lập. Yêu cầu giám sát phòng thí nghiệm trong quá trình điều trị bao gồm ăn chay và đo nồng độ transaminase gan…. Tác dụng phụ thông thường bao gồm đau đầu, khô da , màng nhầy, rối loạn tiêu hoá.

Một số thuốc tránh thai có chứa estrogen: được FDA phê chuẩn để điều trị mụn. Các tác nhân này thường được coi là phương pháp điều trị hàng thứ hai, nhưng có thể là phương pháp điều trị đầu tay ở phụ nữ có mụn trứng cá ở tuổi trưởng thành. Một nghiên cứu cho thấy các thuốc này có hiệu quả trong việc giảm tổn thương viêm và tổn thương không viêm.

Spironolactone: được dùng để điều trị mụn trứng cá. Tác dụng phụ bao gồm kinh nguyệt bất thường và đau vú. Nó là một thuốc lợi tiểu tiết kiệm kali và có thể gây ra tăng kali máu nghiêm trọng. Ngoài ra, nó còn có tiềm năng gây quái thai.

Phương pháp điều trị bằng laser và ánh sáng

Ánh sáng và laser trị liệu có thể được sử dụng cho điều trị mụn trứng cá. Ví dụ như ánh sáng xanh, xung-nhuộm laser và phương pháp quang động.

Trả lời