Khi được hỏi ý kiến tư vấn về một thành phần chống oxy hóa tự nhiên, đa số các bác sỹ sẽ đưa ra cái tên đầu tiên là vitamin E. Thật vậy, vitamin E là một trong những tác nhân chống oxy hóa mạnh nhất được tìm thấy trong cơ thể người. Chức năng sinh học chính của nó là bảo vệ lipid khỏi các tác động oxy hóa và tổn thương gốc tự do.
Lipid là các khối cấu tạo của màng tế bào và các cấu trúc hóa sinh quan trọng khác. Các thành phần lipid rất dễ bị oxy hóa nếu không được bảo vệ và sẽ phân hủy trong một vài giờ. Vì vậy, một tác nhân bảo vệ lipid chẳng hạn như vitamin E có ý nghĩa rất cần thiết. Tuy nhiên, hầu hết mọi việc đều không đơn giản như vậy. Vitamin E cũng không phải là một ngoại lệ.
Giống như bất kỳ vitamin nào khác, sự thiếu hụt hoàn toàn vitamin E trong khẩu phần ăn hằng ngày là vô cùng nguy hiểm. Tuy nhiên, lượng tối thiểu vitamin E cần thiết cho sức khỏe rất nhỏ và gần như bất kỳ chế độ dinh dưỡng nào cũng có thể đáp ứng được nhu cầu này (ngoại trừ các bữa ăn chứa nhiều dầu mỡ đã qua chế biến nhiều lần). Đã từ rất lâu, nhiều chuyên gia cho rằng lượng vitamin E cao hơn nhu cầu tối thiểu có thể cung cấp các lợi ích bổ sung (chẳng hạn như giảm nguy cơ đục thủy tinh thể, bệnh lý tim mạch hay làm chậm lại tiến trình lão hóa). Tuy nhiên, trong một vài năm gần đây hình ảnh của thành phần này đã bắt đầu chịu nhiều ảnh hưởng tiêu cực. Một số nghiên cứu lâm sàng quy mô lớn và đáng tin cậy đã chứng minh rằng việc bổ sung liều cao vitamin E trong thời gian dài có ít hoặc thậm chí không có tác dụng gì trên nguy cơ tim mạch. Trong một nghiên cứu khác, vitamin E dường như còn làm cho vấn đề trở nên tệ hơn.
May mắn thay, một số nghiên cứu mới khác trên thành phần này đang giúp nó dần lấy lại được vị thế của mình. Thực tế, công thức thích hợp của vitamin E thậm chí có thể tỏ ra hiệu quả hơn rất nhiều so với trước đây. Tuy nhiên, không thể sử dụng các sản phẩm vitamin E một cách mù quáng mà cần phải hiểu rõ về thành phần này để có thể thu được các lợi ích một cách tốt nhất.
Hầu hết các chế phẩm bổ sung vitamin E đều chỉ chứa alpha-tocopherol hay chính xác là DL-alpha-tocopherol – hỗn hợp chai đồng phân quang học D và L của alpha-tocopherol. Mặc dù DL-alpha-tocopherol có thể đủ để ngăn ngừa sự thiếu hụt vitamin E, nó vẫn chưa phải là lựa chọn tốt nhất cho sức khỏe đi được sử dụng đơn độc. Vitamin E hiện tại được tin rằng đại diện cho một gia đình lớn hơn gồm những hợp chất liên quan nhưng riêng biệt bao gồm alpha, beta, delta và gamma tocopherol cùng với alpha, beta, delta và gamma tocotrienol.
Hỗn hợp các tocopherol
Alpha tocopherol – thành phần chính trong hầu hết các chế phẩm bổ sung vitamin E – là một tác nhân chống oxy hóa đã được nghiên cứu ghi nhận.Tuy nhiên, mỗi thành phần chống oxy hóa đều có một phạm vi mục tiêu giới hạn, nghĩa là alpha tocopherol chỉ hiệu quả trong việc chống lại một số loại gốc tự do nhất định. Các tocopherol khác như beta, delta và hầu hết các dạng gamma quan trọng đều có phạm vi tác dụng tương đối khác nhau. Chúng giúp bổ sung và tăng cường hoạt động chống oxy hóa của alpha tocopherol. Một vài nghiên cứu chỉ ra rằng hỗn hợp các tocopherol tỏ ra hiệu quả hơn so với alpha tocopherol trong việc loại bỏ các gốc tự do cũng như ngăn ngừa bệnh tật. Đáng chú ý, một nghiên cứu cho thấy rằng liều cao alpha tocopherol đơn độc làm giảm nồng độ trong máu của gamma tocopherol từ 30 – 50%. Điều này có thể giải thích vì sao trong một số trường hợp liều bổ sung cao các chế phẩm vitamin E thông thường có thể gây hại hơn là mang lại lợi ích.
Các tocotrienol
Các tocotrienol cũng là một phần của gia đình vitamin E và có lẽ cũng là phần quan trọng nhất. Tocotrienol có tiềm lực cao hơn khoảng 50 lần so với tocopherol trong khả năng chống oxy hóa. Chúng được chứng minh giúp tăng cường tuổi thọ của một số động vật trong phòng thí nghiệm lên khoảng 20%. Ở các nghiên cứu trên người, tocotrienol cho thấy hứa hẹn ấn tượng trong việc ngăn ngừa và điều trị các bệnh thoái hóa. Cụ thể, trong một nghiên cứu tocotrienol đã được chứng minh giúp đảo ngược tình trạng hẹp động mạch cảnh do xơ vữa động mạch – một thành tích ấn tượng đối với điều trị không xâm lấn. Tương tự như tocopherol, tocotrienol có các dạng alpha, beta, gamma và delta.
Tự nhiên và nhân tạo
Trong nhiều trường hợp, các vitamin tổng hợp (nếu được sản xuất đúng cách) mang lại hiệu quả ngang bằng so với dạng tự nhiên. Vitamin E là một trong các ngoại lệ. Vitamin E tự nhiên chỉ bao gồm dạng D của các tocopherol và tocotrienol trong khi vitamin E tổng hợp thường chứa hỗn hợp cân bằng của dạng D và L. Việc phân lập dạng D khỏi hỗn hợp là có thề nhưng chi phí khá đắt, do vậy hầu hết các nhà sản xuất đều không thực hiện bước này. Dạng L tỏ ra ít có hiệu quả sinh học hơn so với dạng D đặc biệt là khi sử dụng dưới dạng các chế phẩm bổ sung đường uống.