Một Số Ảnh Hưởng Của Enzyme Đối Với Làn Da (Phần 1)

Sự trao đổi chất và chuyển hóa ở người là một hệ thống phức tạp được vận hành và duy trì cân bằng thông qua rất nhiều các phản ứng hóa học khác nhau. Enzyme là các tác nhân giúp xúc xác phản ứng và các khiếm khuyết, đột biến của chúng sẽ gây ra những sự rối loạn vốn để lại nhiều hậu quả đối với làn da.

Các enzyme có thể được hình dung như là những cái bẫy nơi mà những chất nền vừa vặn ở dạng phân tử mắc vào, chúng được giữ lại, biến đổi hóa học và sau đó được phóng thích. Không giống như các phản ứng hóa học thông thường, quá trình này chỉ cần năng lượng cung cấp ở mức tối thiểu.

Một số enzyme có tính chuyên biệt cao và chỉ biến đổi một hợp chất cụ thể duy nhất, trong khi một số khác lại có thể tác động trên cả một nhóm chất. Số lượng các enzyme có thể lên đến hàng nghìn. Thêm vào đó, còn có các enzyme của các vi sinh vật trên da (phần lớn là khuẩn staphylococci và propioni) góp phần vào sự hình thành lớp mantle acid trên da.

Hoạt động của enzyme sẽ tăng hoặc giảm thông qua việc được kích hoạt, phân hủy hay ức chế tùy thuộc vào các thành phần phản ứng, xảy ra bởi các ảnh hưởng về mặt hóa học hay vật lý, nội sinh hoặc ngoại sinh. Chẳng hạn, enzyme tyrosinase chịu trách nhiệm cho sự tổng hợp melanin được kích hoạt bởi bức xạ UV từ mặt trời và có thể bị ức chế bởi ascorbyl phosphate (ester của vitamin C) từ một loại serum dùng ngoài da.

Enzyme được nhận diện về mặt tên gọi bởi hậu tố “ase”, cấu tạo bởi các cấu trúc protein và có thể là các nguyên tố kim loại giúp xúc tác một số phản ứng cụ thể. Tùy thuộc vào loại phản ứng sinh hóa mà enzyme sẽ thuộc các nhóm phân loại khác nhau:

  • Các oxidoreductase tham gia vào các phản ứng oxy hóa khử. Ví dụ: catalase khử hydroperoxide thành nước.
  • Các transferase chuyển các nhóm chức của một chất này sang một chất khác. Ví dụ, các acyltransferase vận chuyển các phần acid béo dư thừa thông qua coenzyme A.
  • Các hydrolase thủy phân các phân tử trong môi trường nước, chẳng hạn như thủy phân ester thành acid và ancol (esterase) hay urea thành anoniac và carbon dioxide (urease).
  • Các lyase phân tách liên kết hoặc toàn bộ phân tử. Ví dụ: men fumarase trong chu trình acid citric tự nhiên của cơ thể chuyển acid fumaric thành acid malic.
  • Các isomerase biến đổi cấu trúc steric của phân tử. Ví dụ: epimerase chuyển galactose thành glucose.
  • Các ligase liên kết hai phân tử lại với nhau, chẳng hạn như kết hợp acid aspartic và amoniac thành asparagine.

Nhìn chung, đa phần các enzyme đều có khả năng xúc tác một vài phản ứng khác nhau và do vậy không thể được phân vào một nhóm enzyme đơn lẻ nào. Mặc khác, có một số enzyme chuyên biệt, chẳng hạn như các protease (hay peptidase) có tác dụng phân tách một acid amin hoặc các chuỗi gồm 2, 3 hay nhiều hơn các acid amin từ một protein. Các enzyme này đóng một vai trò rất quan trọng đối với sức khỏe làn da. Cần biết rằng trạng thái cân bằng của tất cả các quá trình diễn ra bên trong da không phải là một cân bằng tĩnh mà luôn luôn biến động.

Bất cứ khi nào có tình trạng gián đoạn giữa sự hình thành và sự thoái hóa, trạng thái cân bằng sẽ bị rối loạn. Trong trường hợp rosacea, sự tổng hợp các peptide kháng khuẩn (antimicobial peptide – AMP) và đặc biệt là các cathelicidine được kích thích. Tuy nhiên, do các protease nội sinh phân hủy các peptide ở một tốc độ nhanh hơn, hoạt động phòng vệ kháng khuẩn của làn da là không đủ. Các mầm bệnh từ đó trở nên mất kiểm soát và tiếp tục gây tổn thương bởi các protease của riêng chúng. Hậu quả là phản ứng viêm sẽ xảy ra.

Tình trạng tương tự cũng được nhận thấy ở viêm da thần kinh.

Trả lời