Những đơn vị của tuyến nhờn được tìm thấy trên khắp bề mặt da, ngoại trừ những vùng thuộc lòng bàn tay và lòng bàn chân. Mật độ của các nang dày đặc nhất ở da đầu, cổ và vai. Ở người lớn, mật độ của các nang trên da đầu và khuôn mặt trong khoảng 310 đến 900 nang trên mỗi cm2.
Bã nhờn da trong nang lông
Trên cơ thể và chân tay, mật độ này ít hơn 100 nang/cm2. Tuyến bã nhờn lớn hiện diện trong các mô liên kết dưới niêm mạc môi và niêm mạc miệng. Những tuyến nhờn trên niêm mạc miệng thường xuất hiện dưới dạng các đốm có màu vàng nhạt, gọi là điểm Fordyce. Đặc biệt, các tuyến bã nhờn cũng xuất hiện ở rìa của mí mắt và xung quanh núm vú.
Sự bài tiết bã nhờn
Sự kiểm soát của hormon
Tuyến bã nhờn được kích thích bởi hormon androgen được sản xuất bởi tinh hoàn, buồng trứng và tuyến thượng thận. Testosterone và androstenediol được sản xuất bởi tinh hoàn. Ngoài ra, buồng trứng cũng tiết ra testosterone, androstenediol và dehydroepiandrosterone. Tuy nhiên, vai trò quan trọng của hormon steroid trong việc điều tiết hoạt động của tuyến bã nhờn ở nữ giới là không chắc chắn. Dehydroepiandrosterone và dehydroepiandrosterone sulfate được sản xuất bởi các tuyến thượng thận là nội tiết tố chủ yếu của phụ nữ và cũng có vai trò quan trọng đối với nam giới. Trong tế bào sebocyte, các hormon androgenic liến kết với thụ thể cytosolic, sao đó được chuyển đến nhân tế bào và điều chỉnh biểu hiện của gen.
Những biến đổi về tuổi tác và giới tính
Tuyến bã nhờn hoạt động mạnh trong tử cung, chịu trách nhiệm sản xuất vernix caseosa – một lớp bã nhờn lipid và việc bong tróc lớp sừng bao bọc xung quanh trẻ sơ sinh. Một năm sau sinh, tỷ lệ này giảm xuống rất thấp và duy trì như vậy cho đến tuổi dậy thì. Ở thời điểm dậy thì, sự gia tăng vượt trội của hormon androgen gây ra sự biến đổi nhanh chóng trong việc bài tiết bã nhờn. Mặc dù có sự khác biệt lớn trong khả năng bài tiết chất nhờn giữa các cá nhân khác nhau, nhưng nhìn chung tỷ lệ này bắt đầu suy giảm dần trong những năm kết thúc dậy thì và tiếp tục giảm cho đến cuối đời. Tỷ lệ bài tiết bã nhờn trung bình ở nam giới cao hơn so với nữ giới ở bất kì độ tuổi nào.
Thành phần bã nhờn
Bã nhờn trên cơ thể người được được tiết từ các tuyến bã nhờn độc lập bao gồm các thành phần chủ yếu như squalene, ester của sáp và triglycerides với tỷ lệ nhỏ của cholesterol và ester của chúng. Chất lỏng này có độ nhớt cao và được thoát ra bên ngoài thông qua các nang lông, enzym lipase của cả vi sinh vật và từ biểu mô sẽ thủy phân một số triglyceride. Như vậy, bã nhờn thu thập được từ bề mặt da có tỷ lệ triglyceride thấp hơn so với bã nhờn từ trong lồng tuyến và có mặt các acid béo tự do. Mức độ thủy phân triglyceride rất khác nhau.
Một số thành phần bã nhờn da
Bã nhờn với sức khoẻ
Không thể phủ nhận sự đóng góp của chất nhờn trong việc bôi trơn bề mặt da và đôi khi người ta nghĩ rằng da khô là do kết quả của việc sản xuất kém hiệu quả chất nhờn trên da. Tuy nhiên, có 2 luồng ý kiến trái chiều về vấn đề này. Thứ nhất, trẻ em trước tuổi dậy thì hầu như không sản xuất chất nhờn nhưng lại không mắc phải tình trạng da khô hoặc các vấn đề về da khác. Thứ hai, trong một nghiên cứu khác, lượng chất nhờn tiết ra được khảo sát và đồng thời, đối tượng khảo sát này cũng được theo dõi về tình trạng da của mình. Kết quả khảo sát không cho thấy sự tương quan giữa sản xuất bã nhờn và tình trạng khô da. Bã nhờn không làm ảnh hưởng đến chức năng thấm qua hàng rào bảo vệ da. Thực tế, nếu chất nhờn của con người được sử dụng trên da động vật gặm nhấm mới sinh, chức năng rào cản bị giảm đi.
Vai trò bảo vệ của bã nhờn bề mặt da khỏi sự xâm nhập của tác nhân kích ứng và vi khuẩn
Một chức năng khác của bã nhờn đó là góp phần vào khả năng kháng khuẩn bảo vệ da. Từ lâu, nó đã được biết đến với acid béo được sản xuất bởi sự thủy phân triglycerid của bã nhờn có tính kháng khuẩn và gần đây, người ta cho rằng lipid bã nhờn có thể gây ảnh hưởng đến khả năng bám dính của nấm men lên lớp sừng trên da. Bên cạnh đó, ngoài việc suy giảm chức năng của hệ thống miễn dịch, sự giảm tiết bã nhờn theo độ tuổi được cho rằng cũng đóng góp vào tỷ lệ mắc các bệnh nhiễm trùng do vi khuẩn và nấm da ở người cao tuổi. Nhưng trên thực tế, trẻ trước tuổi dậy thì ít bị nhiễm trùng da do hệ thống miễn dịch của chúng khỏe mạnh. Vì vậy, chất nhờn rõ ràng là không cần thiết đối với việc tránh nhiễm trùng da, nhưng nó có thể có ích trên một số cá thể đặc biệt.
Bã nhờn và mụn trứng cá
Mối tương quan rõ ràng giữa sự xuất hiện và mức độ của mụn trứng cá với tỷ lệ bài tiết của bã nhờn. Trong một nghiên cứu so sánh giữa độ tuổi và giới tính trên nhưng đối tượng bị mụn trứng cá ở các mức độ khác nhau: nặng, nhẹ và không có mụn trứng cá. Người có mụn trứng cá nặng tương ứng với khả năng tiết bã nhờn cao nhất, trong khi người bị nhẹ thì tỷ lệ này giảm dần và người không có mụn trứng cá thì tỷ lệ này rất thấp. Tỷ lệ tiết bã nhờn trung bình cho tất cả đối tượng có mụn trứng cá gấp 3 lần so với những đối tượng không có mụn trứng cá và không có trường hợp nào có mụn trứng cá mà có tỷ lệ bài tiết bã nhờn thấp hơn tốc độ bài tiết trong điều kiện bình thường.
Sự phát triển của khả năng kháng viêm trong tổn thương gây ra mụn là một quá trình nhiều bước. Quá trình này bắt đầu bằng sự hình thành của việc phá vỡ lớp sừng hoặc sự bít tắc các nang chân lông. Vi khuẩn trong nang lông sau đó phát triển và phình to lên. Các biểu mô tuyến nhờn trở nên mỏng dần, và phản ứng kháng viêm tự động cảm ứng do tác nhân là những sản phẩm của vi khuẩn khuếch tán vào các mô xung quanh.
Tương quan bã nhờn và mụn trứng cá
Người ta cho rằng sự phát triển của mụn trứng cá có thể là kết quả của việc tăng nồng độ acid béo thiết yếu tại các biểu mô nang. Trong nhiều thử nghiệm, nếu hệ thống acid béo thiết yếu bị suy giảm sẽ làm cho da khô ráp, có vảy và khả năng thấm nước cao hơn. Khi các acid béo trong chất nhờn đi xuyên vào nang tế bào biểu mô, nó sẽ cạnh tranh với acid linoleic đang được lưu hành để tổng hợp thành lipid tại chỗ. Hậu quả này có thể dẫn đến sự hình thành mụn trứng cá và chức năng của rào cản có khiếm khuyết sẽ tạo điều kiện trao đổi nguyên liệu giữa nang lông và các mô xung quanh. Điều này bao gồm khả năng xâm nhập của nước và các chất dinh dưỡng vào trong lòng nang lông, kích thích sự phát triển của hệ vi khuẩn tại đây và tăng cường phản ứng kháng viêm.
Phương pháp điều trị mụn là làm giảm bài tiết bã nhờn. Điều này có thể thực hiện được bằng cách uống retinoid, estrogen hoặc kháng androgen. Estrogen có khả năng giảm sản xuất testosterone và kháng androgen bằng cách ngăn chặn thụ thể androgen trên tế bào sebocyte, do đó ngăn chặn sự ảnh hưởng của hormon androgen. Viên uống acid 13-cis-retionic là một điều trị hiệu quả cho việc điều trị mụn vulgaris từ trung bình đến nặng.